Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

Một kỷ niệm xa xưa - Truyện Ngô Minh Vũ


      Khi tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Ðức, vì thứ hạng không cao, nên tôi chỉ còn được ưu tiên chọn về đơn vị Bộ binh. Sư Ðoàn 5 Bộ Binh chịu trách nhiệm vùng Bình Dương, Phước Long và Bình Long và bộ Chỉ huy Sư đoàn đóng tại Phú Lợi, tương đối gần Sàigòn, nên tôi tình nguyện về đơn vị này.
Không hiểu nguyên do gì mà tôi lại được bổ nhiệm về đại đội Thám Kích Xâm Nhập (TKXN) thuộc Phòng 2 Sư Ðoàn.
Theo cấp số, mỗi Sư đoàn có một Đại đội Trinh sát, riêng Sư đoàn này lại có thêm Đại đội TKXN. Sau này tôi mới biết là Đại đội này được thành lập do đề nghị của Đại úy Tú, Trưởng phòng 2 SÐ. Nhiệm vụ chính của Đại đội TKXN là yểm trợ phòng 2 trong công tác sưu tầm tin tức nơi vùng địch kiểm soát. Ngoài ra, Đại đội còn chịu trách nhiệm các cuộc hành quân đột kích.
Tư lệnh Sư đoàn lúc bấy giờ là Chuẩn Tướng Phạm Quốc Thuần. Ðại úy Tú, nguyên là Sĩ quan Dù, không hiểu như thế nào mà lại làm Trưởng phòng 2. Do mang dòng máu Dù, nên ông rất năng động; có lẽ vì thế mà ông đề nghị thành lập Đại đội này.
Kể từ khi Đại đội TKXN hoạt động, Phòng 2 Sư Ðoàn 5 được chấm điểm hạng nhất trong công tác Tình báo Vùng 3 Chiến thuật.

***
Như trên đã nói, nhiệm vụ chánh của Đại đội TKXN là yểm trợ Phòng 2 trong việc xác định sự hiện diện của địch trong phạm vi lãnh thổ Sư đoàn. Nói rõ ra, công tác chánh của đơn vị này là xâm nhập vào vùng mà chúng ta nghi là có sự hiện diện của địch.
Nếu Sở Liên Lạc, nằm ẩn mình ngay bên cạnh Bộ Tổng Tham Mưu, chịu trách nhiệm thả người ra miền Bắc, thì nơi đây, Đại đội này cũng nhảy vào lòng địch, nhưng phạm vi thu hẹp hơn, đó là khu 32 chiến thuật. Nói thế không có nghĩa là tôi muốn thổi phòng đơn vị của mình cho được ngang hàng với các vị Anh hùng vô danh kia, mà tôi chỉ muốn tạo một hình ảnh tương tự để chúng ta dễ hình dung việc làm của Đại đội này. Nói chung, Đại đội TKXN không đủ tầm vóc để đem so sánh với công tác của Sở Liên Lạc về mọi mặt. Các vị anh hùng kia, khi ra đi là kể như không có ngày về, trong khi chúng tôi chỉ đi vào lòng địch trong vòng vài ngày cho tới một tuần lễ; bên cạnh đó chúng tôi còn được hậu cứ sẵn sàng tiếp ứng, cứu trợ tức thì.

***
Phương thức xâm nhập mật khu địch tương đối an toàn nhất, là tổ chức một cuộc hành quân lục soát trong ngày, gần khu vực tình nghi có địch. Chiều đến, đơn vị rút về và để lại một bộ phận nhỏ, thường là một Tiểu đội hoặc một toán bảy người, đôi khi có thêm một, hai toán nữa.
Các toán này sẽ âm thầm đi sâu vào khu vực tình nghi để tìm tòi dấu vết địch. Thường thì chúng tôi chỉ đi từ bốn cho đến 7, 8 ngày vì lương khô mang theo có giới hạn.
Sở dĩ phương thức này an toàn nhất là vì khi bắt đầu công tác, chúng tôi đi chung với bạn đồng đội đông đảo nên không ngại những cuộc tao ngộ chiến.
Cách xâm nhập phiêu lưu nhứt là nhảy trực thăng vào mục tiêu. Khi nhảy như vậy, mục tiêu thường sâu trong vùng địch kiểm soát, và khi trực thăng xuất hiện, địch đã nghe biết và báo động. Có lần, chúng tôi vừa sà xuống bãi đáp là thấy ngay bọn chúng chạy tán loạn và ngay cả chúng tôi cũng cầm bằng cái chết trong tay, phải tìm ngay con đường tẩu thoát. Khổ nỗi là lúc bấy giờ Pháo binh không can thiệp gì được vì chiếc trực thăng thả chúng tôi còn đang lơ lửng trên không, cho nên chúng tôi đành chạy trối chết. Chúng tôi gọi cho Đại úy điều hành cuộc nhảy, gởi ngay “phở” lên đầu bọn chúng mà cũng là ngay trên thân mạng của bọn này. Nhờ tìm được một nơi ẩn núp, tạm gọi là an toàn trước mãnh đạn pháo binh, mà chúng tôi thoát hiểm. Làm như thế, chúng tôi chấp nhận cùng chịu chung mức độ rủi ro như địch nhưng thà bị như thế còn hơn để chúng rảnh tay để truy tìm chúng tôi. May mắn là chỗ núp của chúng tôi khá an toàn nên không ai bị "phở" rót trúng, trong khi đó, chúng tôi nghe chúng gọi nhau ơi ới, vừa tránh đạn pháo vừa ra lệnh tìm cho ra chúng tôi; đồng thời chúng cũng lo di chuyển ngay vì địa điểm đóng quân đã bị lộ. Nhờ loạt đạn pháo binh mà lần đó chúng tôi không bị chúng làm thịt. Chúng tôi thừa biết số phận của mình khi bị chúng bắt cho nên chúng tôi thà chịu chết dưới lằn đạn của quân ta hơn là phải chịu chết trong đau đớn dưới sự tra tấn của địch. Lần đó, ngay hôm sau, chúng tôi được trực thăng bốc khẩn cấp vì trên thực tế, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ là phát hiện sự hiện diện của địch trong vùng nghi ngờ. Ðó là chuyện sau này.

***
Sư Ðoàn 5 BB trong giai đoạn đầu thành lập gồm hầu hết là người Nùng. Ðó là một sắc dân thiểu số nằm ở gần biên giới Việt Hoa. Lúc tôi đáo nhậm đơn vị, Trung úy Đại đội trưởng là một ông già người Nùng tên Ðèo Văn Tý. Vì chiếc lon Chuẩn úy còn sáng chóe, nên tôi được bổ sung về nắm Trung đội 3, do một Trung sĩ nhất thâm niên và dạn dày trận mạc phụ tá. Tuy là Trung đội phó nhưng ông Hạ sĩ quan này đã nhận lệnh ngầm của Đại đội trưởng là “tận tình” giúp đỡ tôi trong lúc chân ướt chân ráo, nếu không muốn nói rõ là huấn luyện tôi thực tập trận mạc.
Bù lại, nhờ có được kiến thức ngoài đời cũng như từ Quân trường, nên tôi cũng nhận được sự kính trọng của người phụ tá. Khi còn ở Quân trường, tôi may mắn được học môn địa hình với một Đại úy có nhiều kinh nghiệm chiến trường. Một trong những kinh nghiệm quí báu tôi học được là cách đi phương giác sao cho không bị lạc mục tiêu. Ông dạy, sau khi lấy phương giác và lên đường, mình phải tìm một địa hình hay địa vật dễ nhận ra tại điểm xuất phát để sau khi di chuyển một lúc, mình sẽ lấy địa hình này làm tiêu chuẩn để đo lại phương giác. Khi đo lại phương giác lúc xuất phát, chúng ta phải cộng thêm hay trừ bớt 3200, tùy theo phương giác lúc khởi hành. Nhờ học được bí quyết này mà tôi đã chinh phục được thuộc cấp trong những ngày đầu ở đơn vị cũng như sau này.
Khi chưa đối diện với thực tế, ta có thói quen xem thường vấn đề. Ðến khi đụng việc mới thấy thực không giống như mộng. Vào rừng già, chỉ di chuyển chừng 5, 7 thước là mất dấu tích điểm khởi hành. Khi di chuyển ta không có cách gì đi đúng được phương giác qui định vì cây cối chằng chịt, chứ đâu có ngay hàng thẳng lối như vườn cao su. Thế nên, kinh nghiệm học được ở Quân trường quả thật đã giúp tôi rất nhiều.

***
Một hôm, Trung úy Đại đội trưởng gọi tôi lên nhận lệnh công tác. Trước mặt ông là tấm bản đồ khu vực Phước Long với những lằn viết chì xanh. Ông cho biết, công điện từ Tổng Tham Mưu cho biết có một Trung đoàn chính qui Bắc Việt vừa xuất hiện trong khu vực này. Thông thường, những tin tình báo từ Tổng Tham Mưu được đánh giá A1, có nghĩa là nguồn tin và nơi cung cấp tin rất chính xác. Tôi nghĩ Bộ Tổng Tham Mưu có được những tin này là nhờ tình báo kỹ thuật của Mỹ và báo cáo của đơn vị 101. Hoạt động của 101 cũng tương tự như Sở Liên Lạc nhưng địa bàn là miền Nam. Nhằm giúp cho Tư lệnh Sư đoàn nắm vững tình hình địch, như nơi đóng quân và hướng di chuyển, để lượng định chiều hướng hoạt động của địch, Đại úy Tú ra lệnh Đại đội TKXN đi thám thính.
Lâu nay, cố vấn Mỹ có nghe nói về hoạt động của Đại đội này nhưng họ không mấy tin lắm, cho nên lần công tác đó, trong mỗi toán của chúng tôi, có một cố vấn Mỹ đi theo.
Sự hiện diện của những anh Mỹ này, kể ra cũng có lợi cho công tác nhưng kèm theo đó, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn.
Về mặt yểm trợ, Phòng nhì được thỏa mãn hầu hết mọi yêu cầu như máy móc truyền tin, lương khô, trực thăng lúc nào cũng ứng chiến để yểm trợ chúng tôi. Bên cạnh đó, các "Con gà cồ" Mỹ sẵn sàng gáy liên tục trên đầu địch. Chúng tôi hoàn toàn vững tâm về mặt này.
Nhưng trong công tác, chúng tôi bị trở ngại rất lớn. Những lần trước, chúng tôi đi một mình rất dễ xoay trở. Trước khi đi, chúng tôi được biết trước sự hiện diện của các đơn vị địch. Thông thường, một vài người trong toán được trang bị AK, vì lúc bấy giờ chúng tôi đóng vai lính cơ động Tỉnh của VC.
Trong rừng, VC có những đơn vị Chính qui Bắc Việt, cơ động Tỉnh. Bọn cơ động Tỉnh, nhiệm vụ giống như Địa phương quân của ta, gồm người miền Nam. Bọn du kích thì lẻ tẻ, gồm dân địa phương, có khi sống trà trộn trong dân chúng.
Vì nhiệm vụ của chúng tôi là khám phá sự hiện diện của lực lượng chính qui Bắc Việt nên vai trò cơ động tỉnh dễ cho chúng tôi qua mặt bọn Bắc Việt. Chúng tôi phải biết rõ tên cấp Chỉ huy địch, tuy thật sự không cần thiết khi phải đối đầu với quân chính qui vì chúng chẳng biết ai là ai; nhưng rủi khi chạm bọn cơ động thì phải biết cách đối đáp. Ví như khi công tác Phước Long, chúng tôi phải thuộc lòng tên tuổi, cấp bậc, cấp Chỉ huy của các đơn vị cơ động thuộc hai tỉnh Bình Long và Phước Long. Chạm đơn vị Bình Long thì phải đóng vai đơn vị Phước Long. Nếu nói trật thì dễ bị khám phá vì bọn cơ động là người miền Nam nên không dễ nói láo với chúng.
Nay có kèm theo mấy ông mũi lõ này thì hết đường nói dóc. Cán binh VC mà sao lại có Mỹ và lại trang bị toàn là M16 và PRC25 ? Ðấy là cái khổ của chúng tôi.
Cái khổ thứ hai là máy truyền tin của Mỹ rất mạnh, ban đêm tiếng nó khè nghe xa cả cây số. Luật hành quân của Mỹ (Với tinh thần dè dặt, tôi xin thưa trước, những gì tôi biết về cách hành quân của đơn vị bạn, chỉ giới hạn trong công tác này mà thôi) là mỗi đầu giờ họ phải báo cáo về phòng hành quân và máy phải mở thường trực để nhận lệnh trên. Vào rừng ban đêm, một tia lửa bằng cây nhang cũng giúp cho địch khám phá sự có mặt của ta, một tiếng tằng hắng nhỏ cũng đủ chết vì đôi khi hai bên cách nhau không đến 20 thước nhưng không hề biết sự hiện diện của nhau. Tôi phải yêu cầu viên Trung sĩ Mỹ thông báo cho bộ phận trực nơi phòng hành quân của họ là không nên liên lạc với chúng tôi; chỉ khi nào cần thì chúng tôi sẽ gọi. Khi dừng quân qua đêm, tôi báo cáo tọa độ khả nghi địch có thể xuất hiện để tác xạ yểm trợ khi cần, ngoài ra đừng bao giờ liên lạc với chúng tôi. Tuy thế mỗi đầu giờ, chúng tôi vẫn phải bấm cần liên hợp, theo ám hiệu riêng để giữ liên lạc liên tục.
Như đã nói, sự hiện diện của những người bạn to xác làm chậm tốc độ di chuyển nhưng nhờ vậy mà họ tin tưởng sự hoạt động của chúng tôi. Lúc đi một mình, bảy người chúng tôi chia làm hai toán nhỏ, thay nhau dẫn đường. Hai toán này không cách xa nhau mấy. Nay có anh mũi lõ, hai toán phải cách nhau khá xa, và toán có anh ta bao giờ cũng đi phía sau để lỡ khi chạm địch thì kịp lánh mặt. Cũng vì thế mà chúng tôi đi chậm lại.

***
Sau khi bay trên trời hơn một tiếng đồng hồ, chúng tôi được Đại úy chỉ huy ra lệnh chuẩn bị. Một trong ba chiếc UH đang lơ lửng trên không bỗng nhiên sà thấp xuống một vùng trảng trống, chiều dài mỗi bề không quá một cây số. Khi trực thăng còn cách mặt đất chừng hai thước, bọn tôi phải nhảy xuống đất. Trên đầu gió lộng ào ào, tiếng động cơ chác chúa, chúng tôi bất kể mọi sự, cấm đầu phóng ngay vào bìa rừng. Mạng sống của chúng tôi bấy giờ giao cho ông Trời. Chỉ trong tích tắc, chiếc trực thăng đã nghiêng mình lượn trở lên trên không, phóng theo hai chiếc bạn để yểm trợ họ thả hai toán còn lại, thuộc Trung đội của tôi.
Vào được bìa rừng mà không bị chúng hốt, chúng tôi cầm chắc là đã qua mặt được Diêm vương, ít nhứt là 80%. Các bạn tôi, nhanh như những con sóc, bố trí ngay vòng đai quan sát để bảo vệ trong khi tôi xác định điểm đứng và hướng đi.
Tôi liên lạc ngay thượng cấp :
- Tám đây chín gọi, trả lời.
- Tám nghe.
- Diều hâu đang kiếm gà, trả lời
- Tốt.
- Số nhà Thanh Thúy phải ba lẻ một, xuống hai chấm năm trả lời.
- Tốt lắm, tiếp xúc gia chủ. Hết.
Kể từ giờ đây, chúng tôi chẳng những xa cách đời sống thị thành mà còn phải sống lẻ loi, cô độc, không được liên lạc với thượng cấp, đồng đội dù đang cùng chung công tác.

***
Như đã biết, Đại úy trưởng Phòng nhì nguyên là Sĩ quan Dù nên chúng tôi sử dụng mật hiệu liên lạc truyền tin giống như các Thiên thần Mũ đỏ.

Trong phạm vi hành quân, Ban ba chọn sẵn, thường là hai điểm chuẩn và đặt tên là rượu, ca sĩ, thuốc lá, hoặc Tỉnh, Thành v.v… Tên các điểm chuẩn này thường là ám chỉ tổng quát một thể loại nào đó như vừa kể.
Hôm ấy, hai điểm chuẩn làm mật hiệu liên lạc là Rượu và Ca Sĩ; vì thế nên tôi báo cáo điểm đứng của mình là Thanh Thúy (Ca sĩ Thanh Thúy) về phía Ðông ba chấm một, phía Nam hai rưởi.
Những lần liên lạc khác, tôi không dùng Thanh Thúy nữa mà đổi tên ca sĩ khác, miễn là ca sĩ, như Thành Ðược, Hùng Cường v.v… Tên nghe thì khác nhưng vẫn là một điểm chuẩn. Khi chọn điểm chuẩn rượu thì chúng tôi thay nhau gọi nào là Martell, rượu đế, Ông già chống gậy v.v…
Sau khi báo cáo xong, chúng tôi ngồi yên, ẩn mình thật kín, quan sát chung quanh thật kỹ và thật lâu, có khi một hai tiếng đồng hồ để xem động tĩnh. Lúc bấy giờ chúng tôi còn gần với trảng trống nên có thể quan sát xa các phía kia. Lúc nãy tuy nói là chúng tôi đã qua mặt được Diêm vương ít ra cũng là 80%, nhưng thật ra, lúc bấy giờ chúng tôi tự biết mình là những con gà con đang bị những cặp mắt cú vọ theo dõi.
Thời gian lúc bấy giờ tựa như ngưng đọng, trái với lúc bắn nhau chí chóe với địch, say trong thuốc súng, thời gian qua mau, qua mau không ngờ.
Ngồi như thế, lúc đầu tâm trí còn tập trung để phản ứng nhanh nếu bị địch hốt. Sau đó chừng nửa tiếng, liền quên mất hiểm nguy trước mắt mà lại nhớ về phố thị, với những cuộc vui trác táng, rượu chè, em út. Bấy giờ lòng thấy chán nản chứ không còn nét ngang tàng, láu cá, tưởng mình như ông trời con, khi ngà ngà say ngả ngớn bên cạnh các em. Ðúng là đời không có ngày mai.
Tôi bấm ống liên hợp mấy lần, theo mật hiệu để báo cáo lên đường. Hạ sĩ Dềnh bắt đầu dò dẫm cất bước. Tuy không thấy dấu hiệu về sự hiện diện của địch nhưng chúng tôi vẫn thận trọng từng bước đi. Tiếng gãy của một cành cây khô trong rừng im vắng không khác gì tiếng kèn xe; trong khi ấy, địch có thể cách chúng tôi không quá mười thước.
Thế nên chúng tôi di chuyển rất chậm, có khi cả hai ba tiếng đồng hồ mới được một cây số. Cái khó của chúng tôi là không được di chuyển trên đường mòn, di chuyển sao cho không để lại dấu vết.
Một trong những hiểm nguy chờ đợi mà chúng tôi không thể tránh né là điểm nước. Chúng tôi phải di chuyển gần những con thanh xà (Dòng nước trên bản đồ) để tự túc nước uống và cũng để phát hiện địch, vì địch cũng cần nước như chúng tôi. Do đó chúng tôi cũng dễ bị địch phát hiện.
Mỗi lần lấy nước, một anh bạn đồng đội phải cầm tất cả bi đông của toán, trườn ra gần dòng nước, phải là một nơi ẩn khuất như là bụi cây, chứ không phải thoáng như bãi biển Vũng Tàu. Tuyệt đối không gây tiếng động nhưng không phải dễ vì khi nước tràn vào bi đông, không khí bên trong tranh nhau chạy trốn gây nên tiếng ục ục. Thế nên lấy nước trong hoàn cảnh này cũng là một “Nghệ thuật”, một kỹ thuật tự lực cánh sinh để thoát hiểm.
Hôm ấy, chúng tôi nghỉ qua đêm cách nơi đáp không quá hai cây số. Rừng về đêm, nhất là rừng sâu sao mà âm u như địa ngục. Tôi chưa ghé thăm địa ngục lần nào trong kiếp sống này nên cảnh tượng đêm nay đối với tôi không khác chi địa ngục mà tôi tưởng tượng. Tiếng côn trùng rả rít, thỉnh thoảng tiếng chim gì không biết, nó kêu to như xé nát màng đêm, khiến chúng tôi, tất cả đều thấy lạnh tóc gáy. Khổ thay, hầu hết bọn chúng tôi đều là những tay nghiện thuốc; thế mà phải chịu nhịn ghiền qua đêm.
Chúng tôi chỉ được ngồi dựa vào gốc cây để ngủ tạm chứ không được nằm. Mọi tiện nghi, dù là tiện nghi của một người lính hành quân cũng phải xếp qua một bên. Chúng tôi không được căng võng, không được trải Poncho để ngả lưng. Mọi người đều được chia phiên gác. Bấy giờ Sĩ quan không phải đi ký sổ gác như thường tình. Lúc bấy giờ, chúng tôi đã vượt xa chế độ Xã hội Chủ nghĩa mà thực sự hòa mình trong thế giới đại đồng; mọi người bình đẳng trong cảnh ngộ này.
Ðêm nặng nề nhưng lại thư thả dần trôi như trêu cợt bảy chàng hiệp sĩ bất đắc dĩ. Mãi khi nghe tiếng chim lao xao báo thức, chúng tôi khai thác ngay phút giây “hỗn độn” này để tiếp tục lên đường. Chờ đến khi trời thật sáng, chúng tôi mới dám dừng chân, tận hưởng hương vị điếu “Bastos” với chút cà phê đen, nguội ngắt được tưng tiu cất kỹ từ khi còn ở hậu cứ. Nương theo sương khói của núi rừng, chúng tôi nén khói thuốc thật sâu tận đáy phổi để sau đó thả ra từ từ chứ không được hút ào ào như người “thế tục”.
Sau khi thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác, nào là điểm tâm, chúng tôi còn phải thải ra những chất thừa của cơ thể. Mọi động tác đều phải theo qui củ.
Chiều hôm ấy, tức là ngày thứ hai của chuyến công tác, chúng tôi khám phá được một còn đường mòn. Ðây là một con đường mòn khá cũ. Tưởng cũng cần nói thêm là, trong rừng sâu, vì là vùng chúng kiểm soát nên sự di chuyển của chúng không như chúng tôi. Và cho dù có muốn cũng không được vì với một đại đơn vị, từ cấp trung đoàn trở lên, không sao không để lại dấu vết khi di chuyển.
Khi khám phá thấy con đường mòn, chúng tôi dừng chân, bố trí và phái người bò ra quan sát. Ðối với việc này tôi phải đích thân đảm trách vì dù sao tôi vẫn phải nhận lãnh trách nhiệm. Hơn nữa, tôi phải hướng dẫn người bạn to con quan sát tận mắt để sưu tầm tin tình báo.
Tôi và viên Trung sĩ Mỹ bò nhẹ nhàng đến bên cạnh con rắn điu điu, ám chỉ con đường mòn. Trước khi bò ra, tôi phải bố trí hai nhóm, mỗi nhóm hai người đi “tiền đồn” ở hai đầu mục tiêu. Hai đứa chúng tôi bò đến gần con đường mòn, ẩn mình thật kín trong bụi cây, áp tai trên đất để lắng nghe tiếng động di chuyển. Mọi sự vẫn như tờ.
Bọn chánh qui Bắc Việt chỉ di chuyển ban đêm, ban ngày chúng dừng quân. Biết thế nhưng chúng tôi vẫn lắng nghe tiếng bước di chuyển của địch vì bọn địa phương dẫn đường thường đi do thám ban ngày. Sau gần một tiếng đồng hồ ẩn mình trong bụi rậm, chúng tôi bò ra gần sát con đường mòn. Chỉ cần một nhánh cây khô bị gãy cũng giúp chúng tôi lượng định tình hình. Tầm mắt chúng tôi đảo từ gần đến xa, từ trái qua phải thật chậm. Tôi phát hiện có dấu lá cây bị giẫm tuy đã cũ nhưng không quá lâu. Chúng tôi vội lánh xa con rắn điu điu.
Tôi báo cho người bạn Mỹ biết là đêm nay chúng tôi sẽ trải dọc theo con đường mòn này. Sau đó, chúng tôi tiếp tục quan sát địa thế, xác định điểm đứng và tìm địa điểm thuận lợi để bố trí nhân sự đêm nay. Tôi căn dặn đồng đội cách ứng phó và điểm tập trung nếu bị thất lạc hoặc khi bị địch khám phá.
Chúng tôi chia làm ba toán. Người bạn Mỹ, tôi và người mang máy ở giữa, Hạ sĩ Dềnh cùng với một người bạn đồng đội trấn phía Bắc, hai người còn lại quan sát phía Nam con đường. Tuy nói là trải dài nhưng thật ra khoảng giữa hai đầu không quá mười thước.
Sau khi ấn định vị trí cho anh em, chúng tôi rút ra xa con đường để ăn chiều, nghỉ ngơi. Khi nắng chiều sắp tắt, chim bay về tổ lao xao. Nương theo những tiếng cựa mình của rừng thẳm, tôi liên lạc về nhà, báo cáo số nhà qua đêm.
- Tám đây chín gọi, trả lời.
- Tám nghe, trả lời.
- Nhậu nếp than, trái hai ly rưỡi, trên hai ly ba, trả lời.
- Có gì lạ, sao còn lẩn quẩn ở địa chỉ cũ, trả lời.
- Thấy dấu con rắn điu điu, bò song song với con rắn lục, đang theo dõi, trả lời.
- Tốt, cố gắng và thận trọng, trả lời.
- Hết.
Anh bạn Mỹ cũng lo phần liên lạc với đơn vị của anh ta. Tôi không quên dặn anh thông báo cho họ số nhà những nơi mà tôi yêu cầu để rót "phở" khi cần. Tôi chấm sẵn tọa độ cho từng điểm để khi cần chúng tôi sẽ không lập lại tọa độ. Người bạn Mỹ cho biết ở nhà sẵn sàng thỏa mãn yêu cầu yểm trợ. Tôi yên tâm phần nào.
Thú thật lúc bấy giờ tinh thần chúng tôi rất căng thẳng, nhất là viên Trung sĩ Mỹ. Những người bạn đồng đội của tôi, tuy dày dạn chiến trường nhưng vì kiến thức Quân sự có giới hạn nên họ chăm chú nghe lệnh và nhất nhất làm theo.
Kể từ giờ phút ấy tôi chấm dứt liên lạc với cấp trên nhưng họ phải trực máy 24/24. Tôi yêu cầu anh bạn Mỹ cũng làm tương tự vì như đã nói, ban đêm, tiếng máy khè nghe rất lớn.
Tất cả nhắm mắt dưỡng thần, tuy rất khó nhưng vẫn cố vì chưa biết đêm nay có chợp mắt được chút nào không. Bóng đêm phủ chụp chúng tôi thật nhanh. Ba toán chúng tôi về vị trí. Muỗi rừng tuy không chích chúng tôi nhưng tiếng vo ve của chúng cũng làm mình khó chịu. Thỉnh thoảng tôi phải thoa thêm thuốc chống muỗi.
Ban chiều, chúng tôi đã dọn dẹp chỗ qua đêm để tránh gây tiếng động lúc trở mình hay di động. Cành cây và lá khô đều được dọn sạch. Thời gian nặng nề trôi, tôi thấy thèm điếu thuốc lạ lùng nhưng đành chịu nhịn.
Rừng về đêm cộng thêm sự tịch mịch càng tăng thêm sự rùng rợn. Lúc gần 10 giờ, tôi phát hiện có tiếng động giống như lá khô bị giẫm cùng lúc ấy tổ phía Bắc cũng giựt dây báo động. Tinh thần căng thẳng đến độ tôi như ngừng thở. Tôi giựt dây báo động cho tổ phía Nam và được họ trả lời cho biết họ cũng đã nghe tiếng động. Thế là tôi tạm yên tâm nhưng cơn lo khác lại đến là rủi một người nào đó gây tiếng động như là ho, tằng hắng thì chỉ có nước chết.
Tiếng giẫm chân trên lá khô càng rõ dần. Tôi thò tay khều vào lòng bàn tay người bạn Mỹ, vừa trấn an anh ta mà cũng là để tự cảnh giác mình. Tôi bấm ống liên hợp để thông báo cho nhà biết tôi đang cận kề địch. Họ chỉ nhận được tín hiệu của tôi mà không được hỏi lại vì tôi điều chỉnh nút âm độ đến mức tối thiểu. Tôi nghĩ là cấp trên ở nhà cũng đang hồi họp chờ đợi tín hiệu của tôi.
Màn đêm nơi rừng núi gần như che khuất thị giác của tôi. Tôi cố mở to mắt nhưng vẫn không thấy gì. Chúng tôi hoàn toàn trông cậy vào thính giác. Tôi căn cứ vào tiếng động của cành và lá khô bị giẫm để phỏng tính hướng di chuyển cũng như quân số địch.
Tôi nghĩ địch quân đã được huấn luyện cách di chuyển ban đêm sao cho ít gây tiếng động nhưng như chúng ta biết, hầu như Chính phủ VNCH chỉ kiểm soát được khu Thành thị. Vùng nông thôn và rừng núi về đêm hoàn toàn ngoài vòng kiểm soát của quân ta. Thế nên địch không áp dụng kỷ luật di chuyển chặt chẽ lắm. Thỉnh thoảng chúng tôi có nghe tiếng họ liên lạc nhau.
Trước đó mấy ngày, Phòng nhì Sư Ðoàn nhận được bản tin A1 của Tổng Tham Mưu về sự hiện diện của địch cấp Trung đoàn trong khu vực mà chúng tôi hiện đang công tác. Ðối chiếu hồ sơ trận liệt, cấp trên quyết đoán chúng là Trung đoàn 275. Nhiệm vụ của chúng tôi là tìm số nhà của chúng. Giờ này ở nhà chắc đang định vị số nhà mới của chúng để ước tính tình hình cũng như khả năng và ý đồ của địch trong tương lai gần.
Bấy giờ khoảng 12 giờ đêm, trăng hạ tuần bắt đầu lố dạng đâu đó. Chỉ thấy rừng đêm trở nên mờ ảo, tầm nhìn của chúng tôi bớt bị giới hạn nhưng việc này lại gây khó khăn cho chúng tôi hơn vì địch có thể khám phá sự hiện diện của chúng tôi nhờ ánh trăng. Trong hoàn cảnh này, địch làm chủ tình hình, chúng tôi trở thành đặc công. Lúc bấy giờ, nếu có ai cho vàng bảo ngủ chúng tôi cũng không ngủ được.
May sao, chị Hằng có lẽ vì mặc cảm bị khuyết tật nên không thích chường mặt lâu dài, vội nép mình sau lớp mây mù. Không hiểu chị Hằng 
đã làm gì mà tiếp theo đó là vài tiếng gầm gừ của lão Thiên lôi, cộng thêm vài tia chớp từ xa. Tôi thầm cám ơn Trời Phật.
Khoảng nửa giờ sau, mưa bắt đầu rơi. Tiếng tí tách của mưa chạm lá rừng giúp chúng tôi thoải mái trở mình. Trong khi đó, tiếng chân di chuyển của địch giờ đây được kèm thêm tiếng sột soạt của những tấm ni lông chạm vào nhau.
Mưa vẫn rơi và địch tiếp tục đi. Thỉnh thoảng chúng tôi giựt dây liên lạc nhau để cảnh giác. Quả thật cơn mưa đã giúp chúng tôi rất nhiều nhưng gây khó chịu cũng không ít. Toàn thân ướt mèm. Cái lạnh lẩn quẩn quanh thân nhưng không trấn áp được nỗi lo sợ trong lòng. Mãi đến khoảng 2 giờ đêm, tiếng địch di chuyển thưa dần và dứt hẳn. Tuy thế chúng tôi vẫn giữ nguyên vị trí cũ và chịu đựng cơn lạnh. Giá mà kéo được một hơi thuốc thì sung sướng biết bao.
Cơn nguy hiểm coi như đã qua nhưng chúng tôi phải trải qua mấy tiếng đồng hồ nữa trong tình trạng như thế cho đến khi gần sáng.
Khi ánh dương rụt rè trở lại với rừng sâu, tôi hỏi ý kiến người bạn Mỹ :
- Mầy nghĩ gì và tính sao ?
Anh ta trả lời nhanh :
- Gọi trực thăng đến bốc về.
Nhiệm vụ của anh ta là muốn kiểm chứng việc làm của Phòng nhì Sư Ðoàn. Nhiệm vụ của toán là phát hiện địch. Giờ đây chắc hẳn là các tên cố vấn Mỹ không còn nghĩ là Phòng nhì Sư đoàn báo cáo không đúng sự thật.
Thực tế, chúng tôi đã chu toàn trách nhiệm, khám phá sự hiện diện của địch. Chúng tôi phải đi thêm vài cây số nữa đến một cái trảng trống để trực thăng bốc về.
Những phút giây nghẹt thở được đền bù bằng mấy ngày phép và mặc sức mà đấu láo khi bắt đầu ngà ngà hơi men !

Ngô Minh Vũ

Không có nhận xét nào: