Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2017

Tìm về Nha Trang xưa - Ngô Văn Ban

https://farm2.staticflickr.com/1636/25421668542_f5eeb09eef_b.jpg
Toàn cảnh Nha Trang xưa
Tôi sinh sau đẻ muộn đến 17 năm kể từ năm 1924, năm Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Thị trấn Nha Trang (centre urban). Những người dân sinh ra ở thành phố này, hiện nay bảy tám chục tuổi, hay hơn nữa, biết rõ Nha Trang xưa hơn tôi nhiều.
<!> 
https://farm2.staticflickr.com/1649/24909682654_f6ae5b15f6_b.jpg
Trung tâm Nha Trang xưa

Hồi đó, tức là trước năm 1924, tên Nha Trang chỉ cả khu vực huyện Diên Khánh, nơi lỵ sở của Nam Triều (triều Nguyễn) như Nguyễn Siêu trong Phương Đình Dư Địa chí đã ghi : 
"Năm Quý Sửu (1793) đại quân lấy lại Bình Khang doanh, tiến đánh thành Quy Nhơn, lúc ban sư đắp thành đất ở thủ sở Nha Trang gọi là Thành Diên Khánh, núi sông thực là thiên hiểm, tục gọi là Nha Trang thành" (1). 

Thành đất ở thủ sở Nha Trang này được xây dựng năm 1793, trên lũy Hoa Bông cũ, nơi đã từng đặt lỵ sở cũ phủ Diên Ninh, sau đó là phủ Diên Khánh thuộc dinh Thái Khang, Bình Khang. Nguyễn Siêu còn viết thêm : "Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) chia hạt gọi là tỉnh Nha Trang… "(2) . 

Ta biết rằng, năm 1832, vua Minh Mạng đã có sự cải tổ về đơn vị hành chánh. Trong Đại Nam Thực Lục có ghi : 
"Nhâm Thìn, năm Minh Mạng thứ 13 (1832), tháng 10, ngày mồng 1, : Bắt đầu chia hạt, đặt quan từ Quảng Nam trở vào Nam" (…) 1. Chia tỉnh hạt : …. Tỉnh Khánh Hòa : trước là Bình Hòa, thống trị phủ Diên Khánh, Ninh Hòa và 4 huyện Phúc Điền, Vĩnh Xương, Quảng Phúc, Tân Định. Trước 2 huyện Hoa Châu và Phúc Điền, nay gộp lại thành huyện Phúc Điền"(3). 

Như thế, Nguyển Siêu gọi tỉnh hạt Khánh Hòa là tỉnh Nha Trang là lấy tên Nha Trang cũ gọi nơi lỵ sở của quan chức triều Nguyễn đóng ở Thành. Lúc đó, Phúc Điền là huyện thuộc phủ Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa và khu vực thành phố Nha Trang hiện nay là thuộc huyện Vĩnh Xương, tổng Xương Cát cũng nằm trong phủ Diên Khánh. 

https://farm2.staticflickr.com/1493/25532057186_9c86961469_b.jpg
Con đuờng dọc theo biển Nha Trang xưa mang tên Duy Tân

Trong một quyển sách viết về "Alexandre Yersin, người chiến thắng bệnh dịch hạch" của Henri H.Mollaret và Jacqueline Brossollet, ta thấy người Châu Âu rất say mê khí hậu và quang cảnh Nha Trang vào năm 1900, cách đây gần một trăm mười năm:
Người Châu Âu, họ chỉ khoảng 20 người vào năm 1900 cư ngụ dọc theo vịnh cát mịn tuyệt đẹp. Còn làng của người bản xứ, gồm những mái nhà nhỏ lại đóng tại địa điểm gọi là Mũi dân chài, tại cửa sông để ra biển Đông, trong một vịnh nhỏ khuất gió. (…). 

https://farm2.staticflickr.com/1662/25532058306_797032c8f4_b.jpg
Con đuờng dọc theo biển Nha Trang nay, bị đổi tên sang đuờng Trần Phú . 
Nha Trang rất thoáng mát nhờ vào gió biển lẫn các ngọn gió bri-zơ (gió biển, brise de mer) từ các ngọn núi lân cận thổi vào và được hút về phía mũi tàu bởi một dãy thung lũng nhô cao phía trên vịnh. Với một nguồn nước thật tinh khiết lấy từ các giếng, Nha Trang trở thành nơi nghỉ ngơi và nghỉ mát của những người Châu Âu sống tại Đông Dương. Thế là kéo theo sự xây dựng nhiều khách sạn, villa và tất cả sự đô thị hóa cần thiết cho những gia đình đi nghỉ hè.. « (4) . Nhưng đó Nha Trang năm 1900, còn năm 1891 trước đó, khi bác sĩ Yersin lần đầu tiên đến Nha Trang, từ biển nhìn vào "anh rất kinh ngạc trước khung cảnh hùng vĩ - núi với biển – ánh sáng chói ngời long lanh dưới nước, và sự yên tĩnh trong veo dưới một làn gió nhẹ của cảnh này sẽ còn mãi mãi là nơi gắn bó nhất với anh ở Đông Dương. Anh thấy nơi này có phần vắng vẻ. Nhìn từ ngoài biển, cả một dải cát trắng trên bờ biển, kéo dài đến sáu cây số là một bãi sa mạc. 

Mấy ngôi nhà tranh đơn sơ của dân chài xếp hàng dọc theo một dải đất ở cửa sông, nơi có một số tàu đánh cá đến trú. Vài ba ngôi nhà trệt rải rác đó đây là nhà của các viên chức người Pháp ở đây : Một công sứ, một đội trưởng cảng sát, một ông trưởng khế, một thuế quan. Bởi vì nếu Nha Trang là nơi có công sứ Pháp ở thì nó không phải là một trung tâm lớn, đông dân của tỉnh và là nơi dinh lũy của chính quyền bản xứ. Không có buôn bán. Không có công nhân tại chỗ. Không có vật liệu xây dựng gần đó. Đường biển là phương tiện giao thông và vận tải duy nhất đi về phía Nam bộ, Trung Trung bộ và Bắc bộ… » (5) 

https://farm2.staticflickr.com/1525/25244585160_07678e21d9_b.jpg
Cảng Cầu Đá xưa

Cảng Nha Trang lúc đó, năm 1920 đã được xây dựng ở một cầu tàu nhỏ ở chỗ hiện nay, dùng cho chiếc tàu lưới rà chuyên dùng của Viện Hải Học Đông Dương có tên là De Lanessan đậu và hoạt động thí nghiệm. Người dân lúc bấy giờ thường gọi Hải học Viện (nay là Viện Hải Dương Học Nha Trang) là sở cá và quen gọi cảng này là bến Cầu Đá. Cảng này cũng là nơi qua lại của một vài tàu hàng và các thuyền buồm lớn đến từ Trung Hoa. 
https://farm2.staticflickr.com/1703/25189775299_036042c062_b.jpg
Viện Hải Dương Học Nha Trang 

Về Bãi biển Nha Trang 

Bác sĩ Yersin cũng có những nhận xét : 
Trên một bãi cát mịn dài bảy cây số, chạy theo đường vòng cung, những làn sóng đã được các vách đá làm dịu đi rất nhiều, không ngừng dào dạt. Cát trải dài trắng xóa lấp lánh dưới ánh mặt trời nhiệt đới này bị những đường uốn lượn của một dãy núi dài cắt ngang về phía Bắc, vừa đưa khu rừng nhiệt đới đi thẳng biển thành một mũi nhọn. (…). Và về khí hậu Nha Trang, trên bờ biển khí hậu dịu đi nhờ có hơi gió nhẹ từ trong đất liền và từ ngoài biển thay nhau đều đặn thổi về suốt cả ngày.(…). Ngày 9.6. 1986, Yersin viết cho ông Ru (Bs Roux chuyên ngành vi trùng học): » Ông Ru quý mến ơi, xin ông hãy đến đây gặp lại tôi, nếu ông biết ở đây dễ chịu đến chừng nào. Không bao giờ nóng quá, không bao giờ lạnh quá và rất yên tĩnh để làm việc » (6) 

http://farm8.staticflickr.com/7057/6987655423_7588e86906_m.jpg

http://farm8.staticflickr.com/7203/6841517702_58ae9762ac_m.jpg



Ngôi nhà của Bs Yersin ở và làm việc là một lô cốt. 

Năm 1895 từ Pari quay về lại Nha Trang, Nha Trang lúc đó có một lô cốt cũ vươn lên giữa vài ngôi nhà thấp của khu kiều dân Pháp bên bãi biển và những căn nhà chòi của ngư dân gom lại chỗ góc cửa sông (7) , nơi xóm Cồn bây giờ. Cái lô cốt này, Bs Yersin mua lại vào năm 1895 và ông đã biến nó thành nơi ăn ở, làm việc, quan sát.., mà dân ở Xóm Cồn thường gọi nôm na là Lầu Ông Tư, một di tích nay không còn nữa. 

Nay không thấy được Lầu Ông Tư, vậy đọc trên sách vậy: «Qua nhiều lần dọn dẹp, ông đã biến nó thành ngôi nhà ở của mình. Khối gạch hình lập phương với cạnh là 7,50 thước và gồm hai tầng này, hoàn toàn được bao bọc bởi một ban công và chấn song cao 2m. Mặt hướng ra biển và hơn nữa có một phần nhô ra rất rộng. Hệt như một ngôi nhà ở các khu phố cũ của Luân Đôn, mỗi tầng của nó chỉ có một phòng duy nhất, tầng trệt là phòng ăn, lầu một làm văn phòng, phòng ngủ đặt tại lầu hai. Đầu tiên mái nhà lợp bằng ngói. Ngôi nhà cao này nhô cao phía trên thành phố Nha Trang một thời gian dài. Vào khoảng năm 1908, Khi Yersin cho thay mái ngói bằng một ân thương bằng xi măng để lắp đặt một đài thiên văn nhỏ, ngôi nhà lại càng dễ nhận ra hơn từ phía xa bởi mái vòm của nó. Suốt gần nửa thế kỷ, Yersin ở và làm việc tại đây. Từ đây ông quan sát biển và cửa sông, thấy những phụ nữ lom khom đi bắt tôm hay hoạt động của dân chài ... (8) . 

https://farm2.staticflickr.com/1458/25447467361_00270bd8fa_b.jpg
Nhà bác sĩ Yersin

https://farm2.staticflickr.com/1524/25557985965_50d6426a22_b.jpg
Nhà bác sĩ Yersin xưa . Sau năm 1975 bị đập đi làm khách sạn

http://farm8.staticflickr.com/7065/6841517660_d0f35ec71d.jpg


Bác sĩ Yersin mất ngày 1 tháng 3 năm 1943 tại Nha Trang, hưởng thọ 80 tuổi. Ngôi mộ của ông đặt tại Suối Dầu Nha Trang theo đúng di chúc của ông.

http://farm8.staticflickr.com/7059/6987655501_c4df053402_z.jpg
Suối Dầu Nha Trang

Về Đường cái quan 

Từ năm 1895 đến năm 1904, lúc Bs Yersin đến cư ngụ tại thành phố này, "không ai có thể thấy trước là Nha Trang sẽ trở thành bãi tắm cho những người đã bị mệt mỏi vì khí hậu ở Nam bộ và vì những nơi thiếu vệ sinh ở phía Nam Đông Dương. Mấy năm sau đã có những khách sạn lớn và những biệt thự xếp hàng dài theo bờ biển để đón họ. Con đường sắt xuyên Đông Dương dài 1.860 cây số từ Sài Gòn đi Hà Nội, sẽ đưa họ tới đó.. Kể cả những xe ô tô riêng và những xe ca trên con đường cái quan cũng dùng Nha Trang làm nơi nghỉ chân hiếm có… » (9) . 

Đường cái quan (route mandarine) đây nay là đường Quốc lộ 1A đi từ Bắc vào Nam, được thay đổi nhiều lần và tên cũ mất đi để trở thành "Con đường thuộc địa số 1 xứ An-nam" như người Pháp đã gọi. Đường bộ phải qua đèo cao, rừng rậm, nhiều thú dữ nhất là cọp, nên chỉ dùng trong chinh chiến. Chủ yếu quan dân đi lại, vận tải hàng hóa bằng đường thủy. Đời vua Gia Long, cho trùng tu lại quốc lộ Bắc Nam, gọi làĐường cái quan hay Quan lộ và vào năm 1803 cho lập các Trạm dịch. Quan quân, dân thường di chuyển trong địa phận tỉnh phải qua 10 Trạm dịch, trên những con đường gian nan, vất vả và nguy hiểm vì nạn cọp. Trạm gần nội thành thành phố Nha Trang được đặt tại thôn Cát Lợi, xã Vĩnh Lương. Từ trạm này, muốn qua huyện Diên Khánh để vào trạm trong thì đi trên con đường, nay là đường Cải lộ tuyến, xưa là con đường đất, qua Cầu Thành, cây cầu gỗ nối liền thôn Phú Lộc qua chợ Thành. 

Từ năm 1924, khi lập thị trấn Nha Trang, các công sở của người Pháp được xây dựng ở đây và một trạm dịch, Trạm Nha Trang, cũng được xây dựng gần nơi Tòa Sứ, nay là trụ sở của Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh (cộng sản). Như vậy, từ đó, trạm Hòa Cát phải qua trạm Nha Trang rồi mới lên huyện Diên Khánh bằng con đường dài 10 cây số, là đường 23 tháng Mười hiện nay để đi vào trạm trong . 

Sau 1885, Pháp đặt nền cai trị, di chuyển binh lính, chiến cụ, khai thác tài nguyên cần đường đi lại cho thuận tiện. Pháp cho lập cơ quan Công trình công cộng (còn gọi là Lục Lộ) để làm đường mới, nới rộng đường cũ, cho tráng nhựa. Sở Lục Lộ Nha Trang được thiết lập đầu thế kỷ 20, do các kỹ sư Pháp quản lý, còn công nhân là người Việt. Sau này, Pháp thiết lập sở Công Chánh, quản lý về đường sá, cầu cống, thuyền bè, thủy lợi, hải cảng, kiến trúc đô thị … 

Về trách nhiệm các công trình của khu miền Nam, từ Quảng Nam đến biên giới Nam Kỳ, bản doanh đặt tại Nha Trang, mang tên Khu Công Chánh miền Nam Trung bộ, đặt nơi tòa nhà hiện nay là Bảo Tàng Tỉnh Khánh Hòa. 

Về đường sắt

Người Pháp làm đường sắt tuyến Sài Gòn – Nha Trang trong 12 năm liên tục, từ năm 1901, đến năm 1913 mới đến Phú Vinh, nằm cạnh đường 23 tháng 10 hiện nay, thuộc xã Vĩnh Thạnh, có độ dài 462 km.

https://farm2.staticflickr.com/1662/25246325140_c7f2d1b1fc_b.jpg

Ga này có điểm đặc biệt là khi tàu muốn trở đầu chạy vào Sài Gòn, vì không có đường vòng nên đầu máy của nó được đặt vào một bộ phận, gọi là cầu quay. Có một bộ phận máy móc quay cho đầu tàu quay lại, sau đó đầu tàu nối vào các toa và chạy vào ga Sài Gòn. Sau khi Ga Nha Trang được thành lập, cầu quay này không được sử dụng nữa và Pháp đã dùng nó, sửa lại để nhốt những nguời đứng lên chống Pháp, vì lúc đó, nhà lao Nha Trang chật kín cả tù nhân. 

Năm 1928, Pháp khởi công làm tuyến đường sắt Nha Trang – Đà Nẵng, đồng thời người Pháp cho khởi công xây Ga Nha Trang và nối đường sắt từ ga Phú Vinh về đây. Nhà ga có 5 đường tránh tàu và đặc biệt có đường sắt vòng, bao quanh khu ga, tàu không trở đầu máy như các ga khác, thường gọi là đường vòng bóng đèn. Nhà ga xây trệt, mái lợp ngói, nhưng có kiểu dáng kiến trúc đẹp, ngày nay vẫy giữ được y nguyên như thế. Lại nữa, trước mặt ga lại có công viên, vườn hoa (thời chính quyền Sài Gòn cũ có tên là công viên Trịnh Minh Thế, sau 1975, công viên mang tên Võ Văn Ký), tạo cho nhà ga một cảnh quan thông thoáng. Nhà ga được khánh thành vào ngày 2.9.1936. 

Từ năm 1940 – 1943, người Pháp còn cho làm một đường sắt nhánh từ Ga Nha Trang xuống cảng Cầu Đá, nhưng dở dang sau đó được tháo gỡ toàn bộ. 

Trước nhà Ga Nha Trang, nằm hai bên công viên, trên đường Thái Nguyên hiện nay, có hai khách sạn : khách sạn phía đông có tên là Bon Air Hotel của ông Nguyễn Văn Sung, lúc ấy làm Chủ sự Bưu điện Khánh Hòa và khách sạn phía tây có tên là Terminus Hotel của một người Hoa, tên là A Tỷ. Có một điều đặc biệt là tại nơi khách sạn Bon Air Hotel đã nẩy nở một mối tình Lào - Việt . Ông Sung, chủ khách sạn quê gốc Quảng Nam, cha mẹ tham gia kháng chiến chống Pháp, nên ông bị truy lùng, phải vào Nha Trang lánh nạn. Vợ đầu không có con, ông lấy bà vợ sau tên là Lê Thị Nói, người gốc Bình Tân, phường Vĩnh Trường. Ông bà sinh được một người con gái tên là Nguyễn Thị Kỳ Nam vào năm 1921. Ông cho Kỳ Nam ra Huế học ở trường Đồng Khánh. Vào dịp hè 1937, Kỳ Nam 17 tuổi, về nghỉ tại nhà cha mẹ tại khách sạn và giúp cha điều hành khách sạn. 

Lúc đó, khách sạn tiếp đón một khách người Lào là Hoàng thân Souphanouvong, con của một Phó Vương Lào, vừa tốt nghiệp trường Quốc Gia Cầu Đường Paris, được bổ nhiệm về Khu Công Chánh Nam Trung bộ. Ông đi tàu hỏa từ Sài Gòn ra đến Nha Trang vào sáng ngày 13-7-1937 (lúc đó ông 28 tuổi). Đứng trước hai khách sạn trước Ga, ông chọn Bon Air Hotel làm nơi lưu trú, và đó cũng là một sự lựa chọn… định mệnh trong đời ông. Tại đây, mối tình giữa Hoàng thân Lào và cô gái Việt Kỳ Nam nẩy nở và họ cưới nhau vào năm 1938.

https://farm2.staticflickr.com/1584/25515596626_ca6036762f_z.jpg
Đôi vợ chồng Lào - Việt : Hoàng thân Souphanouvong - Nguyễn Thị Kỳ Nam 

Đám cưới được tổ chức tại khách sạn Grand Hotel (nay là Nhà nghỉ T78 44 Trần Phú). Hoàng thân Souphanouvong đã từng giữ chức Chủ tịch Cộng hòa Dân chủ Nhân Dân Lào. Vợ chồng ông đã tặng khách sạn Bon Air cho tỉnh Phú Khánh. Sau này, khách sạn được mở thành cửa hàng ăn uống và hiện nay khách sạn Bon Air Hotel đã bị phá dở chuẩn bị xây văn phòng.
https://farm2.staticflickr.com/1446/25515598606_f61140a7bc_b.jpg

Còn khách sạn Termius Hotel được phòng Cảnh sát Giao thông Công An Khánh Hòa dùng làm trụ sở, vẫn giữ được vẻ dáng bên ngoài như xưa. Ngoài các khách sạn nói trên, Nha Trang xưa còn có

- Khách sạn Frégate đường Pasteur (nay đang xây lại, có tên mới khách sạn Thắng Lợi),
- Khách sạn Beau Rivage nay là khu C khách sạn Hải Yến, đường Trần Phú, vẫn còn mang dáng vẻ cũ.

https://farm2.staticflickr.com/1720/24909683484_17cbb3f81d_b.jpg
Bãi biển trước khách sạn Hải Yến xưa

https://farm2.staticflickr.com/1669/24913497033_705d28641f_b.jpg
Cầu Xóm Bóng xưa

Về Đường hàng không 

https://farm2.staticflickr.com/1604/25532808586_6dd3c79138_b.jpg
Sân bay Nha Trang thời Việt Nam Cộng Hoà

https://farm2.staticflickr.com/1642/24932243893_efc0a0d3c3_b.jpg
Sân bay Nha Trang thời Việt Nam Cộng Hoà

https://farm2.staticflickr.com/1481/24932238903_3da6640132_c.jpg
Sân bay Nha Trang thời Việt Nam Cộng Hoà

Pháp cho xây một sân bay từ năm 1930, đến năm 1935 mới hoàn thành và đưa vào sử dụng. Sân bay nằm trên đường dọc biển. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, sân bay được sửa lại cho các loại phi cơ phản lực có thể hạ cánh, cất cánh được. Khi Mỹ vào Nha Trang đóng quân, cho mở đường băng dài thêm và mở rộng khu vực sân bay, xây dựng hệ thống kho tàng lớn để phục vụ không lực tác chiến, vận chuyển trên cả 2 vùng chiến thuật. Ngoài ra, tại đây, Trường Huấn luyện Chiến thuật Không quân cũng được mở để đào tạo phi công. Ngoài vận chuyển quân sự, sân bay còn phục vụ dân sự, đường bay nối Nha Trang với Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, Pleiku, Đà Lạt …
https://farm2.staticflickr.com/1539/25439039912_e9a725bbbd_b.jpg

Sau 1975, sân bay vẫn chuyển hành khách hàng hóa đi các nơi trên. 

Đến tháng 5 năm 2004, sân bay Cam Ranh được thiết lập và đưa vào sử dụng, thay thế sân bay Nha Trang do diện tích hẹp và độ an toàn không bảo đảm. Từ đó, sân bay Nha Trang chỉ còn dùng cho việc tập luyện của Trường Sĩ Quan Kỹ thuật Không Quân.

https://farm2.staticflickr.com/1715/25557595155_35d0fb9c7e_b.jpg
Sân bay Nha Trang nay đã chuyển sang thành quán xá

Về Cục Bưu Chính 

Người Pháp xây bưu cục Nha Trang từ năm 1885, sau khi một bưu điện được thành lập ở Sài Gòn từ năm 1859. Bưu cục Nha Trang, nhìn tấm ảnh chụp ghi năm 1920 là ngôi nhà 2 tầng, một tấm bảng gắn trên cửa ra vào ở tầng dưới ghi : POSTE et TELEGRAPHES. Hiện nay, di tích đó đã bị phá bỏ và ngay tại đó một khách sạn nhiều tầng của ngành Bưu điện được xây lên. Người dân lúc đó thường gọi bưu cục là nhà dây thép cũng như thường gọi nơi nhà máy phát điện là nhà đèn,bệnh viện Tỉnh là nhà thương, gọi Ngân Khố là Kho bạc… Khi người dân đi đánh điện tín thì gọi làđánh dây thép. Còn người dân muốn nhận một thư bảo đảm hay ngân phiếu phải có giấy căn cước hay thẻ thuế thân. Không có giấy tờ đó thì phải có hai người có giấy căn cước làm chứng và được Lý Trưởng làng ký, đóng triện xác nhận. 

Về Nhà thương

Năm 1935 một phòng khám đa khoa được xây dựng ở cuối đường Quang Trung trên khu đất của Bộ Chỉ Huy Biên Phòng Khánh Hòa hiện nay. Từ năm 1936, bệnh viện được xây dựng từ phòng khám này, có gần 100 giường làm phúc, dành cho người nghèo nên dân thường gọi lànhà thương thí. Thời Việt Nam Cộng Hoà, bệnh viện này thành Quân y viện và một Trung tâm Y tế toàn khoa được xây cất tại khu đất Bệnh viện Đa Khoa Tỉnh hiện nay. 

Về  Đầm lầy xưa ở Nha Trang 

Xưa kia tại Nha Trang có 3 đầm nước do sông Cái Nha Trang ăn sâu vào đất liền. Hai đầm ở hai bên Quốc lộ 1A nhỏ và cạn, sau này dần dần bị lấp và trồng rau muống nên có địa danh Rọc Rau Muống, đến nay không còn dấu vết gì vì nhà cửa mọc lên san sát. 

Đầm lớn nhất, rộng hơn 7 hecta có tên là đầm Xương Huân vì đầm trong khu vực phường Xương Huân.

https://farm2.staticflickr.com/1695/24927985984_22ea539da8_b.jpg
Đầm Xương Huân xưa (bị lấp đi và xây lên thành chợ) . Nay là Chợ Đầm

Trong tác phẩm Hướng về Thiên Y A Na của Quách Giao (10) , con trai của nhà thơ Quách Tấn, nhà ở đường Bến Chợ ngay từ hồi còn nhỏ (năm nay Quách Giao đã 75 tuổi), đã cho ta biết quang cảnh đầm này thuở xa xưa : bờ đầm được xây bằng đá hoa cương từ đáy đầm lên mặt đường. Hai con đường hiện nay là đường Bến Chợ (tên hồi trước là Quai du Marché) và đường Nguyễn Thái Học xưa kia bao quanh đầm. Trên bờ có những cây liễu và đặt ghế đá. Nhà cửa ở bên đầm rất thưa thớt. Đặc biệt có từng đàn chim én tụ tập mỗi chiều, bay liệng vài vòng rồi kéo nhau vào những lùm lách, lùm sậy mọc ở ven sông mà ngủ. Sáng tinh sương, đàn én tản dần đi nơi khác. Vì thế, các thi nhân, như cụ Quách Tấn đã đặt tên khác cho đầm là Đầm Én. 

https://farm2.staticflickr.com/1706/25191113959_093fbe6e55_b.jpg
Chợ Đầm ngày nay thế chỗ cho Đầm Xương Huân xưa

Đầm Xương Huân xưa kia có một ngôi chợ bên cạnh, gọi là Chợ Dài, được xây dựng khoảng năm 1908, là chợ lớn nhất ở Nha Trang thời đó. Chợ này vì xây gần Đầm nên cũng có tên là Chợ Đầm, hay còn gọi là Chợ Cửa vì nằm gần cửa sông Cái. Ngày trước dân đi xuống Nha Trang thường gọi là đi xuống Cửa. Thời Pháp, chợ cất rất quy mô, nền tráng xi măng, cột đúc bê tông xi măng, mái lợp ngói, chứ trước đó chợ được xây cất bằng mái tranh, cột gỗ. Ngôi chợ này, khi có ngôi Chợ Đầm Tròn, được gọi là Chợ Cũ và cách đây mấy năm đã bị phá bỏ, xây vào đó là một chung cư nhiều tầng lầu. 

Bên hông Chợ Dài này có 12 Bến Chợ. Bến Chợ được xây dài theo mé đầm bằng đá hoa cương và có bậc cấp tô xi măng. Thuyền buôn chở các loại hàng từ sông Cái vào Đầm, cập sát bến trước khi nước triều lên. 12 Bến Chợ là : 

1/Bến Cá, tiếp nhận các ghe chở cá từ bến Cù Lao. 
2/ Bến Đình, trước đình Xương Huân. Hàng năm, đến kỳ tế xuân, ngư dân dùng thuyền cập bến Đình này, lên đình dự lễ. 
3/ Bến Lồ Ô, bến của các mảng bè lồ ô từ các nguồn sông Cái chở xuống. 
4/ Bến Gỗ, nơi tập kết các bè gỗ. Trên bến có cây Cốc, cành lá to, gốc lớn, làm chỗ cho việc xẻ gỗ. Ngay bến là đầu đường Nhà Lao (rue Prison), ngang qua nhà lao do thực dân Pháp xây, nay là đường Nguyễn Công Trứ. Năm 1999, nhà lao bị đập phá, thay vào đó là một trường cấp 2 với 3 tầng lầu, dấu vết ô nhục của thực dân chỉ là một tấm bia ghi dấu để thế hệ sau nhận biết. 
5/ Bến Cỏ, còn có tên là Bến Xe Ngựa, đầu đường Nguyễn Thái Học hiện nay, nơi tập trung hầu hết các xe ngựa các nơi về đây. 
6/ Bến Dưa, nơi chất đống dưa hấu chở từ trong Nam ra. 
7/ Bến Mía, nơi chứa mía chở từ huyện Diên Khánh xuống. 
8/ Bến Gốm, nơi tập trung các sản phẩm bằng đất nung như bếp lò, nồi, chum, vại … do những chiếc ghe bầu từ các tỉnh chở đến và cả những đồ gốm của lò gốm trong tỉnh. 
9/ Bến Than, tập trung than các loại. 
10/ Bến Củi, các loại củi dùng cho đun nấu ở các huyện đưa đến. 
11/ Bến Chiếu, tập trung các loại chiếu được đan bằng cói. 
12/ Bến Hà Ra, gần cửa sông, nơi giáp ranh giữa sông Cái và đầm Xương Huân.

Tháng 9 năm 1969, đầm Xương Huân bị lấp, lấy đất xây Chợ Đầm Tròn. Đầm Cù, Đầm Xương Huân, Đầm Én bây giờ chỉ còn trong ký ức của một số người ở địa phương và thi sĩ Quách Tấn không khỏi có những vần thơ hoài cảm, nuối tiếc : Mặt đầm xưa nổi chợ / Nóc chợ trổ hoa sen / Nhụy phấn trăng vàng kết / Đài hương mây trắng chen / Mơ màng sương ánh tuyết / Thấp thoáng bến neo thuyền / Chi ngại đời dâu bể/ Nhàn duyên náo cũng duyên … 

Chợ Đầm, sau 1975, có người ở xa đến, cứ cho Đầm (dame) chỉ các phụ nữ người Châu Âu, thời Mỹ tạm chiếm miền Nam, thường đi chợ này. Họ đâu có biết là chợ được xây trên một cái Đầm đã bị lấp. 
Trước năm 1960, nhận thấy tình hình thương mại càng ngày càng phát triển, Chợ Đầm cũ quá chật hẹp, nhà ở xung quanh chợ không thích hợp, nên chính quyền thời Đệ Nhất Cộng Hoà có ý định quy hoạch lại chợ và nhà ở cho hợp lý, khang trang hơn. 

Năm 1961, đã có một đồ án xây chợ hình tròn thay thế Chợ Cũ . 

Năm 1964, có một đồ án khác xây một ngôi chợ tròn có mái xếp và một nhánh hình cánh cung. Cả hai đồ án chưa kịp thực hiện thì đêm 16-9-1968 xảy ra một cuộc hỏa hoạn lớn, thiêu rụi 126 căn nhà. Trước tình thế đó, việc xây chợ và nhà ở được khẩn cấp thực hiện. Một đồ án quy mô với sự phối hợp với nhiều ngành là cần mở rộng mặt bằng, nên phải lấp đầm và sẽ xây lên đó một ngôi chợ, cùng 2 thương xá và chung cư, làm lại đường xá, cống thoát nước, phương tiện chữa cháy … 

Ngày 12-4-1969, ngày đầu tiên chiếc xáng Bassa của Nha Thủy Vận Sài Gòn bắt đầu thổi cát từ sông lên để lấp đầm. Việc thổi cát này kéo dài trong khoảng 6 tháng mới lấp được diện tích gần 3500 m2 đầm. Ngôi chợ tròn được xây lên, một tầng lầu hình vành khăn, lệch tâm. Diện tích cả tầng lầu và tầng trệt rộng tới 5,270m2. Hai tòa cao ốc 4 tầng được xây theo hình cánh cung bao bọc vòng ngoài ngôi chợ tròn, tầng trệt làm thương xá, các tầng trên làm chung cư xây dựng vào năm 1970 và hoàn thành vào cuối năm 1972. Toàn bộ khu chợ được khai trương và đưa vào sử dụng từ năm 1974. 

Những ngày trong tháng 3-1975, quân cộng sản tiến chiếm thành phố Nha Trang , tình hình tại thành phố Nha Trang trở nên lộn xộn, bất an và gần ngày 2 tháng 4, chợ bị cướp phá, bị phóng hỏa, làm chợ bị hư hỏng nặng, không sử dụng được. 

Sau năm 1975, khi tình hình yên ổn, Tỉnh cho sửa chữa lại toàn bộ chợ và ngày 3-2-1980, lễ khai trương Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Chợ Đầm được tổ chức của thời bao cấp. 

Nay chợ mang tên Trung Tâm Thương Mại Thành Phố Nha Trang. Tuy thế, người dân trong thành phố hay ở các huyện đều gọi tên chợ như thuở nào, Chợ Đầm. Ngày nay, Chợ Đầm không những có chức năng thương mại mà còn là một trung tâm du lịch của TP Nha Trang. Khách du lịch đến Nha Trang, dù đi tự túc hay tham gia các trung tâm lữ hành đều ghé vào chợ để mua sắm đồ gia dụng, đồ kỷ niệm, nhất là các mặt hàng hải sản, trước khi lên đường trở về. 

Về Vận động truờng và Rạp ciné

Sinh hoạt thể dục thể thao thời Pháp, có Vận động trường Nha Trang, tức là sân vận động ngày nay. Thời đó, là một mảnh đất trống, sân bóng chỉ là cát, cỏ mọc lưa thưa. Duới thời Việt Nam Cộng Hoà cho xây tường bốn bên, có khán đài chính lợp mái và một khán đài lộ thiên xây bằng đá đối diện với khán đài chính. 

Năm 1978, sân được xây dựng lại hoàn toàn mới 

Năm 1984, sân được lắp một dàn đèn chiếu sáng phục vụ cho những cuộc thi đấu bóng đá khi trời tối. 
Để đáp ứng nhu cầu giải trí, tại Nha Trang xưa có những rạp chiếu bóng được lập ra, mà người dân lúc đó gọi là rạp xi-nê (cinéma). 

Có hai rạp xi-nê đầu tiên ở Nha Trang vào cuối thập niên 30. 

Rạp thứ nhất là rạp Abraham trên đường Graffeuil (sau là đường Độc Lập, nay là đường Thống Nhất). Năm 1953, ông Tôn Thất Đệ mua lại và đổi lại tên rạp là Tân Tân, nay là Trung tâm Văn hóa Tỉnh Khánh Hòa. 

Rạp thứ hai là rạp Tân Tiến, chủ là một người Ấn Độ ở đường Lê Thành Phương. Rạp này, nay là Siêu thị Sách Tân . 

Ngoài ra còn có một rạp hát bội Thạnh Xương do ông Cò Xương thành lập khoảng thập niên 40 tại đường Sinh Trung để đáp ứng với nhu cầu xem hát bội của một bộ phần dân lớn tuổi của Nha Trang ngày trước, nay là Nhà Hát Tuồng Khánh Hòa. Hồi đó, các rạp xi-nê, khi mua vé được phát một tờ Prô-gam (Programme, chương trình) có in hình ảnh, đôi khi có tờ in màu rất đẹp để giới thiệu phim đang chiếu. Hồi nhỏ, tôi thường sưu tập các tờ chương trình này như sưu tập tem vậy. 

Trong thời Việt Nam Cộng Hoà , Nha Trang còn có một số rạp xi-nê nữa được xây dựng : 

- Rạp Moderne trên lầu, dưới là hiệu Bác Ái, ở góc đường Thống Nhất – Sinh Trung, nơi Nhà sách Nhân Dân hiện nay 
- Rạp Tân Quang ở đường Quang Trung, nay là Siêu Thị Maximark. 
- Rạp Minh Châu ở đường Yết Kiêu, sau này đổi lại thành rạp Kim Đồng và hiện nay cho thuê làm Văn phòng. 
- Rạp Hưng Đạo ở đường Huỳnh Thúc Kháng là Trung tâm Văn hóa Xã hội của Hội Liên Hiệp Thanh Niên tỉnh Khánh Hòa. 
- Rạp Nha Trang Ciné ở đường Hoàng Văn Thụ, hiện đang sửa sang lại để phục vụ việc chiếu phim. 
Như thế, hiện nay chỉ có Rạp Mi-ni số 10 Hoàng Hoa Thám của Trung Tâm Điện Ảnh Khánh Hòa mới xây sau 1975 là nơi duy nhất còn chiếu phim cho khán giả đến xem. 

Như tôi đã nói từ đầu, vì sinh sau đẻ muộn nên không biết Nha Trang xưa như thế nào, tuy đây là quê hương của tôi, nơi chôn nhau cắt rún, nơi sinh thành và lớn lên, gắn bó gần 70 năm nay. Nhưng may mắn thay là trong tay có những cuốn sách, bài báo viết về quang cảnh, con người xưa ở đất Nha Trang mà tôi có thể tìm hiểu được phần nào về Nha Trang xưa và bài TÌM HIỂU VỀ NHA TRANG XƯA này, tuy chưa đầy đủ lắm, là một món quà nhỏ trân trọng kính tặng THÀNH PHỐ NHA TRANG, thành phố quê hương tôi. 

Ngô Văn Ban 

CHÚ THÍCH :
(1) (2) NGUYỄN SIÊU, Phương Đình dư địa chí, NXB Tự Do, Sài Gòn, 1960, trg.161.
(3) QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN, Đại Nam thực lục, tập 3, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2007, trg. 392 và 393.
(4) HENRI H.MOLLARET – JACQUELINE BROSSLLET, Alexandre Yersin, người chiến thắng bệnh dịch hạch, Nguyễn Việt Hồng dịch, NXB Thông Tin, Hà Nội, 1991, trg. 261-262.
(5) NÔEL BÉCNARD, Những cuộc thám hiểm của Yersin, Đào Xuân Quý dịch, NXB Thanh Niên, Hà Nội, trg. 144-145.
(6) NÔEL BÉCNARD, sđd, trg. 218 – 219.
(7) (8) : HENRI …., sđd, trg. 262-263.
(9) NÔEL BÉCNARD, sđd, Trg. 161
Sách báo Tham khảo thêm : - Địa chí Khánh Hòa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Một số các bài báo trong các tạp chí Trầm Hương,Văn Hóa Thông Tin Khánh Hòa, Khoa học và Công Nghệ Môi Trường Khánh Hòa, tạp chí Nha Trang, Báo Khánh Hòa. Xin cảm ơn các tác giả.

Không có nhận xét nào: